Noi gương đồng chí Lương Văn Tri – người con ưu tú của quê hương Xứ Lạng

Đồng chí Lương Văn Tri sinh ngày 17/8/1910 trong một gia đình nông dân giàu truyền thống yêu nước, hiếu học người Tày, tại làng Bản Hẻo, xã Mỹ Liệt, tổng Mỹ Liệt, châu Điềm He (nay là thôn Bản Hẻo, xã Trấn Ninh, huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn).


Thủa nhỏ, Lương Văn Tri được học tại trường Sơ học yếu lược ở châu lỵ Điềm He, Trường Tiểu học Pháp – Việt ở thị xã Lạng Sơn. Những năm tháng học ở trường làng, trường huyện và trường Tiểu học Pháp – Việt tại Lạng Sơn, Lương Văn Tri luôn thể hiện đức tính ham học, đạt nhiều thành tích xuất sắc trong học tập, được thầy giáo khen ngợi, bạn bè khâm phục, noi gương. Trong thời gian học tại Trường Tiểu học Pháp – Việt Lạng Sơn, Lương Văn Tri và người bạn cùng chí hướng là Hoàng Văn Thụ chứng kiến người dân bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột; cùng với tác động của phong trào yêu nước diễn ra sôi nổi khắp cả nước, đã sớm nuôi trong mình tư tưởng yêu nước, ý chí làm cách mạng và nung nấu khát vọng cứu dân, cứu nước.


Ngay từ những năm 1925 – 1926, Lương Văn Tri và Hoàng Văn Thụ đã là những nhân tố nòng cốt trong hoạt động của nhóm thanh niên yêu nước ở Trường Tiểu học Pháp – Việt (Lạng Sơn), tham gia tích cực trong phong trào đấu tranh của học sinh, thanh niên ở thị xã Lạng Sơn đòi thực dân Pháp thả nhà yêu nước Phan Bội Châu và để tang nhà yêu nước Phan Chu Trinh do Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên phát động trong cả nước. Các đồng chí đã bí mật tổ chức phát tán truyền đơn tuyên truyền cách mạng, nhen nhóm lên ngọn lửa đấu tranh cách mạng ở Lạng Sơn.


Trong kỳ nghỉ hè năm học 1926 – 1927, Lương Văn Tri cùng Hoàng Văn Thụ đã quyết định không tiếp tục theo học tại trường Tiểu học Pháp – Việt mà tìm cách qua biên giới, sang đất Trung Quốc, liên lạc với Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, bắt đầu tham gia những hoạt động cách mạng đầu tiên, đánh dấu chặng đường hoạt động cách mạng đầy gian truân, thử thách.


Tháng Giêng năm 1928, Lương Văn Tri và Hoàng Văn Thụ đã bí mật sang Trung Quốc bắt liên lạc với đại diện của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên hoạt động ở khu vực Bằng Tường – Long Châu – Nam Ninh (Quảng Tây, Trung Quốc). Đến cuối năm 1928, hai đồng chí được kết nạp vào tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên; cuối năm 1929, sau một thời gian hoạt động tích cực, đầy nhiệt huyết, đồng chí Lương Văn Tri được kết nạp trở thành đảng viên của Đông Dương Cộng sản Đảng (một trong ba tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam).


Năm 1930, sau hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời; đồng chí Lương Văn Tri cùng các đồng chí khác trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, sinh hoạt tại Đảng bộ đặc biệt hoạt động trên đất Trung Quốc, là thế hệ đảng viên đầu tiên của Đảng. Thực hiện sự phân công của Chi bộ Đảng chỉ đạo phong trào vùng núi biên giới Việt – Trung, đồng chí Lương Văn Tri được phân công chỉ đạo xây dựng, phát triển phong trào quần chúng cách mạng tỉnh Lạng Sơn.


Người dân tìm hiểu về cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Lương Văn Tri qua các bài dự thi.


Từ giữa năm 1930 đến năm 1931, bằng hoạt động tích cực và sự hỗ trợ của quần chúng Nhân dân, đồng chí Lương Văn Tri và đồng chí Hoàng Văn Thụ đã xây dựng được 3 tổ chức quần chúng trung kiên ở Lũng Nghịu (Bằng Tường, Trung Quốc). Từ 3 tổ chức này, các cơ sở cách mạng phát triển nhanh chóng ở xóm Khưa Lếch (Bằng Tường, Trung Quốc), tới các xóm: Khưa Đa, Ma Mèo, Tà Lài thuộc xã Tân Yên, châu Văn Uyên (Lạng Sơn). Kể từ đây, phong trào cách mạng tỉnh Lạng Sơn bắt đầu được xây dựng, các tổ chức quần chúng trung kiên ở khu vực biên giới được hình thành, thiết lập được đường dây liên lạc trong phong trào cách mạng tỉnh Lạng Sơn.


Cuối năm 1931, do yêu cầu của phong trào cách mạng trong nước, công tác đào tạo cán bộ chính trị, quân sự trở thành nhiệm vụ quan trọng và cần thiết. Đồng chí Lương Văn Tri được Chi bộ Đảng vùng núi biên giới Việt – Trung bố trí vào học tại Trường Quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc). Trong thời gian học tại trường, đồng chí luôn chuyên cần học tập, tiếp thu nhanh kiến thức, có thể truyền đạt, hướng dẫn kiến thức quân sự bằng tiếng Trung cho các lớp huấn luyện. Năm 1935, đồng chí Lương Văn Tri đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ khoá học của mình tại Trường Quân sự Hoàng Phố.


Thực hiện chủ trương của Đảng, từ năm 1936 đến năm 1938, các đồng chí: Hoàng Văn Thụ, Lương Văn Tri, Mã Khánh Phương từ Lũng Nghịu (Bằng Tường, Trung Quốc) về Bắc Sơn, Tràng Định tổ chức tuyên truyền, vận động, tập hợp quần chúng cách mạng trung kiên, làm nòng cốt cho phát triển phong trào cách mạng ở Bắc Sơn và Tràng Định. Trên cơ sở phát triển phong trào quần chúng cách mạng, ngày 25/9/1936, chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở huyện Bắc Sơn được thành lập; ngày 11/4/1938, chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở huyện Tràng Định được thành lập.


Kết quả đó đánh dấu bước trưởng thành vững chắc của phong trào cách mạng Lạng Sơn trong nhiều năm do đồng chí Hoàng Văn Thụ, đồng chí Lương Văn Tri và nhiều đồng chí khác đã dày công xây dựng và phát triển.


Bước sang năm 1939, tình hình thế giới và trong nước có những chuyển biến quan trọng. Chiến tranh thế giới lần thứ II nổ ra. Tháng 11/1939, đồng chí Lương Văn Tri được Trung ương Đảng chỉ định tham gia Xứ ủy Bắc Kỳ, là Uỷ viên Ban Thường vụ Xứ ủy, phụ trách công tác quân sự, chỉ đạo tổ chức mở các lớp huấn luyện quân sự đầu tiên, làm nòng cốt, tiếp tục nhân rộng huấn luyện quân sự ra các địa phương ở phía Bắc.


Ngày 27/9/1940, cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ, gây tiếng vang khắp toàn quốc, làm cho kẻ thù hoang mang, lo sợ và dùng mọi thủ đoạn dã man để đàn áp, khủng bố. Thực hiện chủ trương của Đảng về việc phát triển Đội du kích Bắc Sơn làm nòng cốt cho phát triển lực lượng vũ trang cách mạng, tháng Giêng năm 1941, đồng chí Lương Văn Tri được đồng chí Hoàng Văn Thụ trực tiếp giao nhiệm vụ tăng cường chỉ đạo củng cố Đội du kích Bắc Sơn, đảm nhận Chỉ huy trưởng Đội du kích Bắc Sơn, triển khai kế hoạch của Trung ương xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai.


Với sự nỗ lực chỉ đạo hoạt động của đồng chí Lương Văn Tri cùng một số đồng chí cán bộ tăng cường của Xứ uỷ Bắc Kỳ, trong một thời gian ngắn, cơ sở cách mạng ở Bắc Sơn – Võ Nhai có bước phát triển mới, trở thành khu căn cứ địa vững mạnh của Đội du kích. Các lớp huấn luyện quân sự, huấn luyện chính trị do đồng chí Lương Văn Tri phụ trách được mở tại căn cứ Khuổi Nọi, đã đào tạo được nhiều cán bộ cho phong trào cách mạng các tỉnh: Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Giang… Với sự chỉ huy tài tình của đồng chí Lương Văn tri, trong thời gian ngắn, từ đội du kích đầu tiên được đồng chí Trần Đăng Ninh thành lập đã hình thành Trung đội du kích Bắc Sơn. Phong trào cách mạng ở Bắc Sơn sau thời gian bị thực dân Pháp khủng bố đã được khôi phục và phát triển, tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự hình thành và phát triển phong trào cách mạng ở các châu lân cận như Bình Gia, Bằng Mạc và Hữu Lũng.


Tháng 2/1941, Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn (sau này gọi là Đội Cứu quốc quân 1) – một trong những tổ chức tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam được thành lập trên cơ sở Đội Du kích Bắc Sơn, gồm 32 cán bộ, chiến sĩ. Đồng chí Lương Văn Tri, Uỷ viên Ban Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ được Trung ương chỉ định làm Chỉ huy trưởng Đội cứu quốc quân Bắc Sơn. Với vai trò Chỉ huy trưởng, đồng chí Lương Văn Tri đã trực tiếp chỉ đạo Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn, tăng cường hoạt động tuyên truyền, vận động, phát triển cơ sở quần chúng cách mạng, tiếp tục tổ chức các lớp huấn luyện quân sự; cho ra đời Bản tin “Du kích” do đồng chí là chủ bút, để làm tài liệu tuyên truyền vận động, phát triển phong trào cách mạng, xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai.


Tháng 7/1941, trước yêu cầu hoạt động của Đội Cứu quốc quân và việc xây dựng, phát triển căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã chỉ định đồng chí Phùng Chí Kiên – Ủy viên Trung ương Đảng làm Chỉ huy trưởng căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai, kiêm Chỉ huy trưởng Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn; đồng chí Lương Văn Tri, Ủy viên Ban Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, được chỉ định làm Chính trị viên Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn.


Dưới sự chỉ đạo của các đồng chí: Phùng Chí Kiên, Lương Văn Tri, hoạt động của Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn đã góp phần phát triển nhanh chóng lực lượng cách mạng ở Bắc Sơn và các châu, huyện trong tỉnh Lạng Sơn, tỉnh Thái Nguyên…, tạo tiền đề cho việc thành lập khu giải phóng ở các tỉnh Cao Bằng – Bắc Kạn – Lạng Sơn giai đoạn sau này.


Lo sợ trước hoạt động mạnh mẽ của Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn, ngày 25/7/1941, thực dân Pháp huy động lực lượng tiến hành đàn áp khốc liệt, quy mô lớn đối với căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai. Trước tình hình đó, để bảo toàn lực lượng, đồng chí Chỉ huy trưởng – Phùng Chí Kiên, Chính trị viên – Lương Văn Tri đã họp bàn với Đảng bộ Bắc Sơn quyết định rút toàn bộ Đội Cứu quốc quân, chia làm hai phân đội theo hai hướng lên Cao Bằng và ra khu vực biên giới Việt – Trung.


Trên đường rút quân từ Bắc Sơn lên Cao Bằng, khi đến Na Rì thì quân địch bao vây. Đồng chí Phùng Chí Kiên đã hy sinh oanh liệt, đồng chí Lương Văn Tri trúng đạn bị thương nặng, bị địch bắt và giam ở nhà tù Cao Bằng. Kẻ địch đã dùng mọi thủ đoạn, cực hình nhưng đồng chí vẫn giữ vững khí tiết của người cộng sản. Trong vòng một tháng giam cầm, tra tấn dã man, kẻ địch vẫn không khuất phục được đồng chí, các cơ sở Đảng và cơ sở quần chúng do đồng chí phụ trách vẫn được giữ vững và an toàn. Ngày 29/9/1941, đồng chí đã hy sinh anh dũng tại nhà tù của thực dân Pháp tại thị xã Cao Bằng.


Trong suốt chặng đường mười ba năm hoạt động cách mạng, sát cánh cùng với các đồng chí: Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đình Giong, đồng chí Lương Văn Tri đã có nhiều đóng góp tích cực vào việc xây dựng, phát triển đảng bộ các tỉnh: Lạng Sơn, Cao Bằng và Thái Nguyên. Đồng chí đã trực tiếp thâm nhập thực tế, bám sát cơ sở để xây dựng, củng cố phong trào cách mạng tại địa bàn Văn Uyên từ năm 1930 – 1934; tại Bắc Sơn, Tràng Định những năm 1936 – 1938. Trên cương vị là Uỷ viên Ban Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ, Chỉ huy trưởng Đội Du kích Bắc Sơn, chính trị viên Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn, đồng chí đã trực tiếp mở nhiều lớp huấn luyện quân sự cho đội ngũ cán bộ nòng cốt của Xứ uỷ Bắc Kỳ; góp phần xây dựng củng cố phong trào cách mạng, xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai, phát triển Đội Du kích Bắc Sơn thành Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn.


Ba mươi mốt năm tuổi đời, mười ba năm hoạt động cách mạng liên tục, oanh liệt và đầy nhiệt huyết, người chiến sĩ cộng sản kiên cường, người con ưu tú của đất nước, của quê hương Lạng Sơn đã hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc. Đồng chí đã để lại tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, tình yêu gia đình, quê hương, đất nước, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của Nhân dân, trung với Đảng, hiếu với dân, son sắt thuỷ chung với bạn bè, đồng chí, luôn lạc quan tin tưởng vào thắng lợi của cách mạng. Đồng chí Lương Văn Tri ngã xuống khi chưa được chứng kiến thắng lợi vinh quang của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc nhưng lớp lớp đảng viên trung kiên và quần chúng yêu nước đã tiếp nối xứng đáng sự nghiệp vẻ vang của đồng chí, đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn.


Cuộc đời hoạt động cách mạng chiến đấu kiên cường, giữ vững khí tiết và sự hy sinh cao đẹp của đồng chí Lương Văn Tri đã để lại cho chúng ta những bài học vô cùng quý giá; luôn nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên hôm nay không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của người cộng sản, phấn đấu, kiên trì học tập nâng cao trình độ mọi mặt, tích cực hoạt động thực tiễn, đặt lợi ích của Đảng, của đất nước, của địa phương và Nhân dân lên trên lợi ích cá nhân; nghĩa tình, nhân ái với đồng chí, đồng bào, sẵn sàng cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Tự hào với truyền thống quê hương, kế thừa và phát huy những thành tựu đã đạt được từ khi có Đảng lãnh đạo, nhất là trong thời kỳ đổi mới; được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các ban, bộ, ngành Trung ương, sự giúp đỡ chia sẻ của các địa phương trong cả nước, sự hỗ trợ của bạn bè quốc tế, tỉnh Lạng Sơn đã không ngừng cố gắng, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc, đoàn kết trong Đảng, phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, tạo sự đồng thuận trong Nhân dân, cùng khắc phục những khó khăn, hạn chế của một tỉnh miền núi, biên giới; đồng thời phát huy tiềm năng, lợi thế để phát triển. Đến nay đã đạt được những thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao; quốc phòng – an ninh được bảo đảm; tổ chức đảng, hệ thống chính trị không ngừng được củng cố và nâng cao chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.


Với những thành tích xuất sắc đó, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Lạng Sơn đã được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều danh hiệu, phần thưởng cao quý: Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; có 10 huyện, thành phố, 32 xã, thị trấn, 9 đơn vị và 26 cá nhân trong tỉnh được phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân.


Kỷ niệm 110 năm ngày sinh đồng chí Lương Văn Tri là dịp để chúng ta cùng ôn lại quá trình hoạt động cách mạng và những cống hiến to lớn của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc; để tưởng nhớ, tri ân và càng trân trọng, tự hào, biết ơn sâu sắc đối với các anh hùng, liệt sỹ đã chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của Nhân dân.


Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Lạng Sơn nguyện đoàn kết phấn đấu, chung sức, đồng lòng; tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, quyết tâm thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp, xứng đáng với sự hy sinh của các thế hệ cha anh, với truyền thống tốt đẹp của quê hương, xứng đáng với niềm tin, những danh hiệu, phần thưởng cao quý mà Đảng, Nhà nước đã trao tặng.


(Trích diễn văn của đồng chí Lâm Thị Phương Thanh, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ tại lễ kỷ niệm 110 năm ngày sinh đồng chí Lương Văn Tri) - Báo Lạng Sơn

Đăng nhận xét

Mới hơn Cũ hơn